Địa danh nổi bật

NÚI CHÚA – NGỌC XANH NƠI BIỂN NẮNG

Kỳ 1: Đỉnh núi 1.039m bên bờ biển

Từng có dịp leo nhiều ngọn núi cao, nhưng chưa từng một lần leo lên đỉnh Núi Chúa ngay tỉnh nhà, tôi sắp xếp ngay một chuyến trở về Ninh Thuận trước ngày Núi Chúa nhận danh hiệu Khu dự trữ sinh quyển đặc biệt từ UNESCO vào ngày 14-4- 2022.

Nghe tôi nói ý định leo núi, người quen nhắn cho tôi số của hướng dẫn viên Út Nhỏ – một thanh niên dân tộc Raglai (Rắc Lây) sinh ra và lớn lên ngay trong lòng Núi Chúa. Út Nhỏ giới thiệu mình tên Cao Văn Hiệp và nói gọn: “Anh chỉ cần có sức khỏe, còn lại em lo hết!”.

“Rừng núi dang tay”

Sáng hôm sau, Út Nhỏ đã đón tôi tại ban quản lý Vườn quốc gia Núi Chúa ở xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải với một balô đầy đủ lều, võng, đồ ăn, xoong nồi… Cậu thanh niên Rắc Lây cao chỉ 1,5m, người nhỏ thó, da cháy nắng quẩy chiếc balô to hơn cả thân mình một cách nhẹ nhàng xăm xăm đi trước dẫn đường.

Từ thôn Đá Hang, một làng Rắc Lây bên hồ Nước Ngọt lớn nhất trên Núi Chúa, con đường rừng 5km len theo vách núi dựng đứng ngược theo con suối Bàng Cơ đều đã được xây dựng bậc đá lên đến độ cao hơn 500m. Những bậc thang đá ngoằn ngoèo né những khối đá núi chồng lên nhau san sát, luồn qua các rừng cây gai găng đặc trưng vùng khô hạn với gai tủa chi chít từ gốc đến nhọn đang mùa thay lá, lòn dưới những vòm cây chuối khỉ đang mùa trổ bông thơm như hương ổi chín vàng rực, các cây rụng lá đặc trưng của vùng bán khô hạn… đã phải xây dựng trong hai năm 2014, 2015 mới hoàn tất.

Sau một ngày lội rừng 8km từ biển lên, chúng tôi dừng lại trên đồi Ô Lim ở độ cao 800m. Điểm nghỉ chân là một trảng cỏ tranh có bề ngang chừng 200m, vắt ngang từ dãy núi này sang dãy núi khác như một dải lụa xanh trắng thấp thoáng xen giữa màu xanh đậm đặc trưng của rừng nguyên sinh.

Nhiều chuyên gia cho rằng trảng cỏ tranh này là vết tích của một đợt rải thảm bom vào thời chiến tranh. Từ đây nhìn xuống vẫn có thể nhìn thấy từng đợt sóng bạc từ biển xanh mênh mông vỗ vào hỏm cát giữa các chân núi thò ra biển.

Giấc ngủ đêm trên núi của chúng tôi sau đó trở nên chập chờn khi trời nổi gió lớn. Trong tiếng hú liên hồi của gió, chiếc lều cắm nơi khe suối thấp, nép bên một sườn đồi có nhiều cây gỗ lớn thi thoảng rung lắc như muốn bị giật quăng đi.

Đêm không yên giấc đã khiến hành trình hôm sau trở nên khó khăn đối với tôi. Phải mất 2 giờ đồng hồ bám theo các rễ cây cổ thụ để vượt qua nhiều đoạn dốc gần như dựng đứng, những đồi cỏ tranh mà người đi trước chỉ 2 bước chân đã ở trên đầu người đi sau, luồn qua những thân cây gốc to bằng 3 vòng tay người lớn… chúng tôi mới thấy được phiến đá rêu xanh, phía trên có đặt một trụ bêtông vuông cao chừng 1 thước nằm lọt thỏm giữa các tán cây cổ thụ.

Đó là cột mốc đánh dấu độ cao 1.039m trên đỉnh Núi Chúa.

Khối núi chắn bão

Hành trình xuống núi gian nan hơn nhiều so với đường lên. Chúng tôi phải xuống gần chục con dốc dựng đứng khác cho một đoạn đường 14km từ đỉnh núi.

Những cây vừng sâm đang mùa trổ hoa trắng hồng, những đồi hoa sim xen lẫn hoa mua tím biếc cả một trảng đồi, hình ảnh thiên nhiên độc đáo không dễ được thưởng thức đó cũng không giúp bước chân tôi bớt nặng nhọc. Nửa đường, Út Nhỏ đã phải choàng thêm cái balô nặng gần chục ký của tôi, cả hai mới có thể xuống được đến con suối Lồ Ồ dưới dân núi kịp trước khi tắt nắng.

“Đây là con đường ngắn nhất để xuống núi rồi. Trước đây, đường xuống núi vòng qua một hướng khác ít độ dốc nhưng dài hơn 9km. Mỗi lần đi về từ đỉnh phải đến hơn 9 giờ tối, rất khó khăn nên mới chọn con đường mới này”, anh Trần Văn Tiếp – giám đốc Vườn quốc gia Núi Chúa – nói khi đón chúng tôi tại bãi biển có tên là Bãi Hỏm.

“Chắc không có một hành trình leo núi nào từ biển lên đến đỉnh núi cao cả ngàn mét như ở đây. Nếu đi vào khoảng hai tháng nữa, sim, nhót rừng, say vào mùa, vừa ăn vừa đi chắc sẽ bớt mệt hơn”, anh Tiếp cười tếu táo như muốn xoa bớt cơn đau đang âm ỉ hai chân của tôi.

Lý giải về tên gọi Núi Chúa, anh Tiếp cho biết cả vùng này là một dãy núi tảng vòm rộng khoảng 300km2 và có độ cao trung bình 800m đến 1.000m. Người Pháp khi vào Đông Dương đã từng chọn vùng này làm cứ điểm để ngăn chặn các cuộc cách mạng chống thực dân. Đỉnh núi cao nhất trong hệ thống núi này đã được người Pháp đặt tên là đỉnh Cô Tuy. Một tấm bảng gỗ đánh dấu độ cao của đỉnh Cô Tuy được người Pháp dựng còn tồn tại đến năm 2005, Cục Đo đạc và bản đồ Việt Nam trong một chuyến khảo sát mới thay thế bằng cột mốc bêtông mà chúng tôi đã thấy trên đỉnh.

“Nhưng với bà con Rắc Lây và cả những người Việt về sinh sống ở vùng này từ sớm, cứ ngọn núi nào cao nhất thì người ta hay gọi là Núi Chúa. Dần dần tên gọi Cô Tuy cũng lui vào dĩ vãng, Núi Chúa cũng trở thành tên chính thức thay thế trên hệ thống bản đồ Việt Nam và trở thành tên gọi chung cho cả khối núi này. Đỉnh Núi Ông cao 970m mà chúng ta có thể nhìn thấy từ chân núi, người ta cũng gọi là Núi Chúa Em”, anh Tiếp giải thích thêm.

Anh Nguyễn Thành Trung – phó phòng khoa học và hợp tác quốc tế Vườn quốc gia Núi Chúa – còn cho biết thêm nếu chỉ tính riêng các hệ thống núi ven biển Việt Nam, thì Núi Chúa là khối núi có đỉnh cao nhất.

“Chính nhờ có khối núi to lớn, chắn ngay cửa biển như vậy nên tỉnh Ninh Thuận rất ít mưa bão. Biển nổi gió thì trên núi này lại có gió to như đêm qua các bạn leo núi gặp phải”, anh Trung nhận định.

Cũng theo anh Trung, vì là khối núi cao đặc thù ven biển, góp phần tạo địa thế “lòng chảo” nằm trong vùng khí hậu khắc nghiệt đã khiến Ninh Thuận trở thành vùng nắng nóng, khô hạn và ít mưa nhất trong cả nước. Đó cũng là lý do Vườn quốc gia Núi Chúa không chỉ mang trong mình hệ sinh thái rừng khô hạn đặc trưng của Đông Nam Á, mà khối núi cao hơn 1.000m nằm sát biển còn mang trong mình tất cả các kiểu rừng của Việt Nam, từ bán khô hạn chuyển tiếp đến rừng kín thường xanh và kiểu rừng hỗn giao cây lá rộng – lá kim nhiệt đới.

Đàn voọc bên đường

Ngày 14-4, Ninh Thuận tổ chức lễ đón nhận danh hiệu Khu dự trữ sinh quyển thế giới Núi Chúa được Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) công nhận.

Khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa rộng hơn 106.000ha cả đất liền và biển thuộc các huyện Thuận Bắc, Ninh Hải, TP Phan Rang Tháp Chàm và Ninh Phước của tỉnh Ninh Thuận. Trong đó có vùng lõi là khu vực 15.000ha rừng và biển được canh giữ nghiêm ngặt 36 năm qua.

Theo hồ sơ được UNESCO công nhận, vùng dự trữ sinh quyển Núi Chúa đại diện cho hệ sinh thái rừng khô hạn nhiệt đới đang có 54 loài thực vật và 46 loài động vật quý hiếm.

Chuyến đi này của chúng tôi được đánh giá là rất may mắn, khi gặp đến 4 đàn voọc chà vá chân đen sinh sống ở các khu rừng khác nhau. Trong đó, đàn voọc chà vá chân đen trên suối Ô Lim có đến hơn 30 con. Những đàn khác từ 10 đến hơn 20 con. Từ độ cao khoảng 300m trở lên, vùng rừng này được giữ nguyên sinh, không thấy bất cứ dấu vết nào của con người ngoài lối mòn đi lên đỉnh đã được vườn quốc gia tổ chức thành tour lên đỉnh Núi Chúa từ năm 2009 đến nay.

(Bài đã đăng báo Tuổi Trẻ ngày 13-4-2022)

Hết kỳ 1 – Nguồn: Sưu tầm fb.com/sonlam.lamquangia

Kỳ 2- Người con Núi Chúa đã bỏ “ăn rừng”

Gần khu vực đỉnh Núi Chúa giữa thăm thẳm rừng xanh, có những nấm mồ mà đến nay người Rắc Lây đi ngang vẫn kính cẩn bẻ một nhành cây, nhành bông ven đường đặt xuống giữa hai tảng đá một thấp một cao, đánh dấu nơi chôn cất một người đã chết.

Làng du lịch xanh của người Rắc Lây

Cao Văn Hiệp, hướng dẫn viên 30 tuổi người Rắc Lây mà mọi người quen gọi là Út Nhỏ, cho biết đó là nơi người dân thôn Cầu Gãy, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, Ninh Thuận đã từng sống để phát rừng, làm rẫy theo mùa mưa mà họ vẫn quen gọi là “ăn rừng theo nước trời” mỗi năm.

Thôn Cầu Gãy hiện nay nằm ven con suối Lồ Ồ, phía trên làng biển Vĩnh Hy chỉ khoảng 1km. Thôn có 92 hộ dân với gần 400 nhân khẩu, chủ yếu người Rắc Lây mang họ Cao và họ Chama Léa.

Ông Cao Văn Đen, trưởng thôn Cầu Gãy, cho biết trước khi di dời xuống đây, thôn này đã từng du cư một thời gian dài ở độ cao 400m trên sườn Núi Chúa. “Lúc đó cũng chưa có tên thôn mà hay gọi là Láng Bà Chiêu, nơi người Kinh từ phía dưới Vĩnh Hy đi lên đổi bắp, đậu vào đầu những năm 1980. Sau một cơn mưa lớn, cái cầu gỗ duy nhất qua suối Lồ Ồ vào Láng Bà Chiêu bị gãy, từ đó cái tên Cầu Gãy mới ra đời”, ông Đen kể.

53 tuổi, các khớp chân bị đau khiến việc đi núi của ông Đen bị hạn chế nhiều, nhưng ký ức những ngày du cư thuở nhỏ vẫn còn in đậm. “Bắp và đậu là hai thứ mà ai cũng biết trồng. Cứ tìm thấy chỗ nào không dốc quá, dễ phát rừng thì dọn lại đốt một khoảnh rồi gieo hạt thôi. Có điều mỗi lần ăn rừng như vậy chỉ làm được một mùa từ khoảng tháng 9, tháng 10, khi bắt đầu có mưa mà chúng tôi gọi là nước trời”, ông Đen kể.

Năm 1988, ông Đen là một trong ba người thôn Cầu Gãy được đi học phổ cập ở trường dân tộc nội trú do tỉnh Ninh Thuận lập ra trên vùng núi huyện Ninh Sơn. Một năm hai lớp, ông Đen thành người Rắc Lây đầu tiên của thôn “trụ” được tới lớp 6. Và ông trở thành nhân tố đầu tiên giúp Vườn quốc gia Núi Chúa tuyên truyền việc từ bỏ đốt rừng làm rẫy, tham gia vào công tác bảo vệ rừng.

Từ mười năm trước, với mục tiêu hướng cộng đồng Rắc Lây trong lòng Núi Chúa tham gia vào công tác cộng đồng, phát triển lối sống sinh thái hòa hợp với thiên nhiên, những con đường dốc quanh co trong làng đã được Vườn quốc gia Núi Chúa đầu tư xây dựng, lát đá sỏi để trở thành tour du lịch cho những du khách đến tham quan, tìm hiểu văn hóa Rắc Lây và tham quan cảnh sắc suối Lồ Ồ.

Chương trình này đã biến đổi sâu sắc đến người dân thôn Rắc Lây. Cả thôn đến nay vẫn như một mảnh vườn sạch đẹp dưới chân núi thành điểm hút khách đi bộ tham quan. Người Rắc Lây ở đây không còn trông chờ vào “nước trời” để “ăn rừng” nữa. Những mảnh vườn từ việc đốt rừng xưa kia nay đã trả lại cho rừng tái sinh. Mười thanh niên Rắc Lây trong làng tham gia vào tổ bảo vệ rừng, hưởng trợ cấp mỗi tháng từ nguồn phí giữ môi trường mà một resort cao cấp nằm ở sườn núi nhận nước từ con suối Lồ Ồ chi trả. Họ trở thành cộng đồng nòng cốt tình nguyện giữ rừng.

Gắn bó giữ rừng cho vườn quốc gia

Út Nhỏ chính là con trai đầu của trưởng thôn Cao Văn Đen. Cho đến thế hệ của mình, Út Nhỏ là một trong những người Rắc Lây hiếm hoi của thôn Cầu Gãy theo học lên đến cấp III. Học “cao nhất” trong thôn nhưng cũng không tốt nghiệp nổi phổ thông trung học, Út Nhỏ nghỉ ngang lớp 11 và tìm vào TP.HCM làm công nhân nhuộm vải, lên Lâm Đồng hái cà phê, hái hồng… rồi trở về lại thôn Cầu Gãy đào mai, hái lan rừng đem bán.

Thời điểm Út Nhỏ quay về làng cũng là lúc Vườn quốc gia Núi Chúa đối mặt rất nhiều khó khăn trong việc giữ rừng. Những nhành lan Giả Hạc, Ngọc Điểm, Cù Lao Minh… trong các rừng thường xanh ẩm thấp men theo suối cho đến những rừng mai còi cọc uốn theo đá núi, những gốc cây sam đất với bộ rễ chằng chịt tìm chút ít dinh dưỡng trên sườn núi đá khô khan đều có giá.

Út Nhỏ, với “trình độ học vấn cao” và sớm nắm bắt công nghệ, đã trở thành một đầu mối thu mua ở thôn Cầu Gãy và ngày ngày leo khắp các ngã rừng Núi Chúa tìm lan, cây cảnh. “Thời điểm lan Giả Hạc có giá, một giò lan bán tới mười mấy triệu”, Út Nhỏ kể.

Nhưng mỗi khi bị kiểm lâm bắt gặp, điều Út Nhỏ sợ nhất không phải là bị phạt, mà là nỗi xấu hổ với cha mình. “Mấy anh kiểm lâm bắt gặp cũng nhiều lần tha, rồi nói cha mày là trưởng thôn, người đi vận động giữ rừng, mày lại đi phá. Mỗi lần vậy em về không dám nhìn mặt ổng luôn”, Út Nhỏ cười nhớ lại.

Sau nhiều lần được người của vườn và cha mình khuyên, đến năm 2016 Út Nhỏ trở thành một trong số ít người Rắc Lây được tuyển dụng “ăn lương” của Vườn quốc gia Núi Chúa.

Anh Trần Văn Tiếp, giám đốc vườn, bật cười khi nói về Út Nhỏ: “Mình từng đau đầu với thanh niên này nhất. Út Nhỏ như thủ lĩnh của đám thanh niên nơi đây vì thông minh và khôn khéo. Kéo được Út Nhỏ làm thành viên của vườn là một thành công lớn trong việc liên kết với cộng đồng Rắc Lây thôn Cầu Gãy tiếp tục giữ rừng”.

Ban đầu Út Nhỏ về làm nhân viên chạy xe điện, giữ văn phòng vườn quốc gia và kiêm luôn việc khuân vác theo các đoàn khám phá rừng quốc gia Núi Chúa. Chỉ hai năm sau những chuyến phục vụ khách đi rừng với những chuyên gia của vườn, Út Nhỏ đã được giao làm hướng dẫn viên chính.

Đến nay, Út Nhỏ cũng là hướng dẫn viên người Rắc Lây duy nhất có thể dẫn khách tham quan Núi Chúa. Không tính lương hợp đồng với vườn, mỗi một ngày dẫn khách Út Nhỏ được trả 500.000 đồng. “Nhiều anh Rắc Lây đi rừng khỏe lắm, nhưng họ ngại nói. Còn em thì học theo các anh hướng dẫn viên trước, với lại cây rừng em cũng biết nhiều. Có gì em nói đó thôi”, Út Nhỏ nói gọn về nghề hướng dẫn viên của mình.

Từ những thanh niên mới lớn đến những người đã trên 50 tuổi ở thôn Cầu Gãy, khi cần Út Nhỏ đều có thể huy động làm porter cho khách tham quan. Khuân vác tối đa 30kg hành lý, tham gia nhóm lửa nấu bếp “dã chiến” trên hành trình, mỗi porter được 300.000 đồng một ngày. “Quá khỏe so với vác bao than 50kg trên núi xuống bán được chừng 400.000 đồng. Mà đa số là bị kiểm lâm bắt được”, anh Chama Léa Phấn, một porter 51 tuổi ở thôn Cầu Gãy, cười xòa.

****

Trở thành nhân viên Vườn quốc gia Núi Chúa, Út Nhỏ được một người bạn Rắc Lây cùng làm ở đây cho số điện thoại của Chama Léa Thị Liên ở xã Phước Kháng, huyện Thuận Bắc, thuộc vùng đệm phía tây của Núi Chúa. Sau hai lần “ngủ thảo” theo tập quán của người Rắc Lây, Liên đã đồng ý dẫn Út Nhỏ “đi xem rẫy của mình”. Đó là một hành động thay cho lời đồng ý chọn chồng của cô gái Rắc Lây.

Theo chế độ mẫu hệ, thanh niên Rắc Lây sau khi cưới phải theo về nhà vợ. Nhưng trước ngày đám hỏi, Út Nhỏ tâm sự thật tình với Liên rằng mình “không thể bỏ Vườn quốc gia Núi Chúa”. Liên đã chấp nhận rời làng của mình ngược về nhà chồng. Cả hai đã có con trai 4 tuổi.

Người dân thôn Cầu Gãy ngoài mười thanh niên tham gia tổ bảo vệ rừng và có phụ cấp, đa số đều có việc phụ hồ, nhân viên trong các khu du lịch ở làng biển Vĩnh Hy. Tới mùa mưa, họ chỉ còn “ăn” thêm của rừng vài lít mật ong tự nhiên và thu hoạch trái say, một đặc sản có nhiều ở rừng Ninh Thuận để bán.

Út Nhỏ chuẩn bị đồ, mình nấu ăn giữa rừng, gì chớ nấu ăn giữa rừng là nghề của mình rồi

Núi Chúa hiểm trở nhưng lại có vị trí đắc địa vên biển, ven lộ, trở thàng địa điểm kháng chiến từ lâu. Vỏ đạn hoen gỉ này mình còn giữ

Cảnh thôn Cầu Gãy, nằm sườn núi thượng nguồn suối Lồ Ồ phía trên Vĩnh Hy. Không khác cảnh thôn mình mấy chục năm trước. Lúc bay chụp cảnh này toàn hiện lên ký ức tuổi thơ, chiều chiều đá banh ở mấy trảng đất trống …

Hết kỳ 2 – Nguồn: Sưu tầm fb.com/sonlam.lamquangia

Kỳ 3: Ngủ đêm trên biển canh rùa đẻ

Nhìn từ vệ tinh, toàn bộ khối Núi Chúa mang hình dáng như một con rùa đầu quay về hướng nam, đuôi dài sâu vào vịnh Cam Ranh. Những bãi cát ven biển dưới Núi Chúa cũng là nơi mà rùa biển chọn làm bãi đẻ trứng.

Từ thôn… thịt rùa thành điểm giữ rùa

Nắng chiều từ biển vừa bớt gắt nóng, anh Nguyễn Tấn Danh ở thôn Thái An, xã Vĩnh Hải, Ninh Thuận, đã dừng việc chăm sóc hơn hai sào nho chuẩn bị cho trái sau nhà, tranh thủ dọn cơm ăn trước khi ra biển.

Đêm nay, anh không ra biển giăng lưới kiếm cá, mà chỉ đi dọc bãi biển để đề phòng người lạ vào những bãi cát mà rùa thường lên đẻ để bắt rùa.

Từ nhỏ, những người dân thôn Thái An như anh Danh đã quen với việc những con rùa lên bờ từ biển khơi, bị người dân lật ngược để chúng không thể bò được rồi đem về… giết thịt.

Thịt rùa tươi lúc nào cũng có bán ở ngã tư chợ Thái An. “Thịt rùa biển tanh lắm, như tui từ nhỏ đã không ăn được. Nhưng cũng có những người rất ghiền. Thái An cũng từng là đầu mối cung cấp thịt rùa cho nhiều nơi khác”, anh Danh kể.

Bãi cát dài khoảng 2km cách cửa biển thôn Thái An khoảng 4km về hướng Phan Rang là nơi rùa lên đẻ nhiều nhất. Đó cũng là nơi nhiều con rùa bị bắt giết đến độ người ta đặt tên là Bãi Thịt.

Nhưng việc ăn thịt rùa biển chỉ còn trong ký ức những người dân Thái An. Từ năm 2003, việc bảo vệ rùa biển luôn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của Vườn quốc gia Núi Chúa. Đó cũng là thời điểm anh Danh được mời làm thành viên tổ bảo tồn rùa biển do vườn thành lập, rồi lên làm tổ trưởng 17 năm nay.

Tổ có 6 thành viên đều là dân thôn Thái An. Anh Danh điều động người làm sao để khu vực bờ biển Bãi Thịt, Bãi Ngang và một số nơi rùa thường lên đẻ luôn có người canh chừng vào ban đêm.

Từ tháng 3 đến tháng 11 là mùa rùa thường lên đẻ, đó cũng là lúc cần phải canh gác chặt chẽ nhất các bãi đẻ của rùa.

Ban đêm, sau hai lượt đi bộ trên cát để tuần tra, anh Danh cùng đồng đội tình nguyện viên của mình giăng mùng ngủ ngay Bãi Thịt. “Trừ khi mưa thì vào nhà canh giữ núp thôi, chớ bình thường cứ ngủ trên bãi cát. Mát lắm. Ngủ quen rồi về nhà nóng nực không chịu được”, anh Danh cười.

Những “ông đỡ” mát tay của rùa biển

Vào ban đêm, rùa mẹ sẽ thường bò lên bãi cát, dùng hai chân trước bới cát thành một hố sâu khoảng 30 – 40cm, đẻ trứng vào hố rồi lấp lại để giữ nhiệt cho trứng cũng như tránh việc ổ trứng bị xâm hại.

“Rùa thính lắm. Có động phát là nó nín đẻ, bò ra biển lại ngay. Đó là lý do mà bãi biển rùa thường lên đẻ phải được bảo vệ không cho người lạ vào để tránh tâm lý bất an cho rùa, giúp nó yên tâm tìm chỗ đẻ trứng”, anh Danh cho hay.

Nhưng còn một vấn đề nữa khiến công việc của tổ bảo tồn rùa trở nên cực kỳ quan trọng để rùa biển duy trì giống nòi tiếp nối hàng triệu năm, là trứng rùa phải nằm trong độ ẩm thích hợp.

Nếu con rùa đẻ gần mép nước quá, thủy triều lên sẽ đánh bay cả ổ trứng ngay sau đó hoặc việc nước vào ổ sẽ khiến trứng bị hư. Còn nếu đẻ xa bờ quá, đôi khi rùa con nở ra, chưa đi ra tới biển đã bị vô số loài thiên địch khác tấn công giết chết.

Do đó, mỗi khi phát hiện dấu vết rùa bò lên, anh Danh và đồng đội phải tìm ngay ra vị trí của ổ trứng. “Thường thì rùa bò từ biển lên, kiếm chỗ đẻ rồi bò một vòng dọc biển khoảng 200m mới xuống lại. Nó lấp ổ rất khéo, chưa kể là nhiều con bới cả chục hố rồi lấp lại mà chỉ đẻ trong một hố. Kiểu như nó muốn đánh đố mình”, anh Danh kể thêm.

Trước đây, khi phát hiện dấu rùa bò lên, anh Danh phải lấy một cành cây xăm nhẹ vào cát theo dấu đi của rùa để tìm ổ trứng mà rùa đã đẻ. “Giờ thì quen mắt rồi, với lại mình cũng tự rút ra kinh nghiệm. Nên chỉ cần nhìn dấu rùa trên cát, tui có thể biết được chính xác đến 90% vị trí ổ trứng”, anh Danh nói bằng giọng tự hào.

Là người trực tiếp theo sát tổ bảo tồn rùa và cũng thường xuyên ngủ đêm trên biển, đi tuần tra, liên kết chặt chẽ với những tình nguyện viên này, anh Phạm Anh Dũng – phó phòng bảo tồn rùa biển Vườn quốc gia Núi Chúa – thừa nhận đến nay chỉ có anh Danh là người có thể dựa vào dấu vết rùa mẹ tạo ra mà có thể chỉ ra được trúng ổ trứng rùa lấp dưới bãi cát.

Khi phát hiện ra ổ trứng, nếu không phải di dời ổ đi nơi khác mà thấy vị trí rùa mẹ chọn đẻ đã thích hợp, anh Dũng là người chịu trách nhiệm tiếp tục theo dõi sát sao, ghi chép lại tư liệu để chờ ngày rùa nở.

“Thường mỗi ổ sẽ có khoảng 80 đến 120 trứng. Mình phải ghi lại chặt chẽ ngày tháng rùa đẻ để canh. Khoảng 45 ngày thì bắt đầu lấy một tấm vải mùng ủ lại phía trên ổ để không cho các con khác đến ăn thịt rùa con”, anh Dũng nói thêm.

Rùa con vừa nở chui ra khỏi vỏ trứng thì việc đầu tiên là dùng hai chân trước chòi đạp trồi lên khỏi mặt cát và lao thẳng ra biển nhanh nhất có thể. Cũng chính đặc tính này của rùa con, nên gần tới ngày rùa nở, các “ông đỡ” của rùa phải canh chừng để kịp dỡ tấm vải mùng bảo vệ ra cho rùa con thoải mái đi về phía biển.

Với những con có thể trạng yếu, họ phải nâng niu nhẹ nhàng trong lòng bàn tay, đỡ cho chúng ra đến gần mép biển để yên tâm và chắc chắn có một con rùa biển bắt đầu hành trình sống dưới lòng đại dương.

Những thành viên của tổ bảo tồn rùa biển trong cộng đồng Thái An mỗi tháng hiện chỉ được phụ cấp 600.000 đồng. Nhưng chính nhờ tâm huyết của các “ông đỡ” mát tay này mà trong 5 năm từ 2016 đến 2021, có 215 lượt rùa lên đẻ được 81 ổ thì có đến 5.291 rùa con nở ra quay về với biển an toàn. Núi Chúa tiếp tục là một bãi đẻ được rùa chọn lựa sau hàng triệu năm.

*****

Anh Nguyễn Thành Trung – phó phòng khoa học và hợp tác quốc tế Vườn quốc gia Núi Chúa – cho biết các bãi cát ven biển khu vực Núi Chúa hội đủ các điều kiện về loại cát, mực nước, thủy triều để rùa biển sinh sản.

Nơi đây cũng có hệ sinh thái ven bờ cung cấp rong biển và cỏ biển dồi dào cho rùa trưởng thành và các loài cá nhỏ thích hợp cho rùa con vừa nở có thể ăn.

Đặc biệt, đây cũng là một trong số khu vực rất ít tại Việt Nam ghi nhận sự xuất hiện của đồi mồi nhờ lượng bọt biển dồi dào là nguồn thức ăn chính của loài đã được Liên minh bảo tồn thiên nhiên thế giới xếp vào hạng cực kỳ nguy cấp.

Ngoài việc đỡ đẻ cho rùa biển, Trung tâm cứu hộ rùa biển Vườn quốc gia Núi Chúa trong giai đoạn 2016-2021 còn cứu được 29 con rùa xanh và đồi mồi trưởng thành.

Đa số chúng đều được đem về từ các nhà hàng, hộ nuôi nhốt, những người dân buôn bán ở khắp nơi. Hiện tại, ao nuôi của Trung tâm cứu hộ rùa biển đang nuôi 1 con rùa xanh, 2 con đồi mồi được cứu kịp thời khi mắc lưới, chuẩn bị giết thịt…

Đặc biệt, có một con đồi mồi dứa là loài rất hiếm gặp, được người dân nuôi từ nhỏ và nay tự nguyện giao lại. Do nuôi nhốt khác môi trường biển, đến nay con đồi mồi dứa trọng lượng khoảng 3kg này vẫn mới chỉ biết nổi trên mặt nước mà chưa quen với việc lặn sâu.

Anh Ngô Minh Quốc – người phụ trách nuôi rùa được cứu hộ – cho biết những con rùa này sẽ được chăm sóc đặc biệt bằng các loại thức ăn ưa thích, đến khi chúng thực sự khỏe mạnh và quen thuộc lại với môi trường biển mới có thể thả về lại đại dương.

Dân giờ thấy vích kêu cán bộ liền. Ảnh: Phạm Anh Dũng

Đặc tính của rùa con hễ chui ra khỏi trứng là liền xác định được hướng biển để lao ra. Ảnh: Phạm Anh Dũng

Đồi mồi dứa là loài rất hiếm gặp. Đang bị đe dọa tuyệt chủng. Cạnh mai sắc và nhiều răng cưa nhất. Nhỏ nhưng có võ, những loại rùa da, rùa xanh, đồi mồi thường to hơn nó gấp mấy lần nhưng cứ thấy đồi mồi dứa là quay đầu bỏ chạy. Em này bị bắt nhốt nuôi từ nhỏ, khi được giải cứu đem về đây thả vào ao nuôi hồi sức em vẫn chưa quen với việc lặn. Cứ nổi lềnh bềnh trên mặt nước rất thương. Vậy chớ như đã nói, đồ ăn thả vô em cứ lềnh bềnh trườn tới. Mấy ông khác to bự cồng kềnh thấy ẻm là lặn mất tiêu

Thông tin rùa biển

Hết kỳ 3. Nguồn: fb.com/sonlam.lamquangia